10 CHỨC NĂNG CỦA NÃO BỘ
1. Chức năng quan sát chi tiết, hình ảnh 2D trắng đen (ngón út tay phải)
Chức năng quan sát chi tiết, hình ảnh 2D trắng đen là gì?
Đây là kỹ năng để ý chi tiết nhỏ, sự thay đổi nhỏ mà vẫn có thể nhận ra. Người có chức năng này vượt trội có khả năng quan sát tốt, khả năng phối màu trắng đen nổi bật.
Quan sát là gì?
Quan sát là một hoạt động của trí tuệ và diễn ra theo một quá trình, kỹ năng quan sát rất quan trọng đối với con người trong cuộc sống, dưới đây là một số khái niệm về quan sát:
Quan sát đòi hỏi sự chú ý và nhận thức của người quan sát. Quan sát luôn có chủ ý, và bị ảnh hưởng bởi những giả định.
- Người quan sát tiến hành quan sát có mục đích và đôi khi đối tượng được quan sát cũng có mục đích.
Khi ai đó quan sát một sự kiện hay quan sát các cá nhân trong sự kiện đó, người này cũng tham gia ở một mức độ nhất định vào sự kiện đó: vào trước, trong và sau sự kiện đó.
Quan sát bổ sung cho lắng nghe trong việc tiếp nhận thông tin từ bên ngoài. Quan sát là một hình thức khác của lắng nghe.
Một sự quan sát chính xác và nhạy bén có thể cung cấp thêm thông tin về những gì tiềm ẩn bên trong những điều được nói ra.
Quan sát là một hoạt động của tinh thần, nó giúp chúng ta ý thức về những góc độ khác của giao tiếp.
Kỹ năng quan sát hỗ trợ giao tiếp
Để nâng cao khả năng giao tiếp chúng ta phải nâng cao khả năng quan sát. Mục đích là:
Để nắm bắt nhu cầu và động cơ của bạn đọc
Để đánh giá kiến thức, thái độ, quan điểm, tình trạng, tinh thần bạn đọc
Để phân tích một quá trình giao tiếp với bạn đọc
Để thu thập thông tin
Để cung cấp thông tin phản hồi về cách thức tiến hành một quá trình, để đưa ra các chiến lược làm cho quá trình đó trở nên hiệu quả hơn
3 giai đoạn quan trọng trong quan sát
Trước sự kiện:
Người quan sát xác định mục tiêu quan sát và lí do tiến hành quan sát, và có thể đặt ra các tiêu chí quan sát.
Trong sự kiện diễn ra:
Người quan sát chăm chú theo dõi các hoạt động động diễn ra và cách thức diễn ra (diễn ra như thế nào) và lưu các thông tin trong đầu hay bằng cách ghi chép.
Sau sự kiện diễn ra:
Người quan sát sử dụng cá thông tin lưu lại để hoàn tất quá trình quan sát đã chủ định. Người quan sát dùng thông tin thu được để phân tích những gì rút ra từ sự quan sát.
Làm sao để nâng cao năng lực quan sát
Kỹ năng đầu tiên mà bạn cần khai triển và luyện tập óc quan sát khi đọc một đoạn văn- quan sát cẩn thận các từ, chú ý đến mọi chi tiết. Nhiều người trong chúng ta có thói quen đọc Kinh Thánh mà không quan sát chi nhiều, không suy nghĩ về những từ ngữ mình đang xem. Chúng ta đọc nét chữ, nhưng không quan sát về các điều mà các chữ ấy nói đến. Đôi khi chúng ta còn không nhìn hết mọi chữ trong đoạn văn nữa. Chúng ta là những người quan sát lười biếng! Bởi vì chúng ta quan sát cẩu thả và không chính xác nên thường giải thích sai lạc và áp dụng cách nông cạn
Kỹ năng đầu tiên mà bạn cần khai triển và luyện tập óc quan sát khi đọc một đoạn văn- quan sát cẩn thận các từ, chú ý đến mọi chi tiết. Nhiều người trong chúng ta có thói quen đọc Kinh Thánh mà không quan sát chi nhiều, không suy nghĩ về những từ ngữ mình đang xem. Chúng ta đọc nét chữ, nhưng không quan sát về các điều mà các chữ ấy nói đến. Đôi khi chúng ta còn không nhìn hết mọi chữ trong đoạn văn nữa. Chúng ta là những người quan sát lười biếng! Bởi vì chúng ta quan sát cẩu thả và không chính xác nên thường giải thích sai lạc và áp dụng cách nông cạn.
Ý nghĩa và mục đích của bước quan sát
Việc quan sát có thể định nghĩa nhiều cách: hành vi, khả năng hoặc tập quán nhìn xem và ghi nhận; nhìn xem kỹ lưỡng; nhìn chăm chú; đặt tất cả chú ý vào điều mình đang nhìn; chú tâm vào điều đang nhìn. Có người mô tả quan sát là “nghệ thuật nhìn xem sự vật như chúng là, không thiên vị, cách chăm chú và không chút sợ hãi.”
Quan sát đòi hỏi tập trung tâm trí!
Mục đích của quan sát là nắm bắt hoàn toàn nội dung của đoạn văn. Như một miếng bọt biển, bạn sẽ thấm mọi sự nằm trước mắt bạn. Bạn cần học cách quan sát cách chính xác và đúng đắn. Không phải mọi điều bạn đọc đều có giá trị ngang nhau; do đó, trong tiến trình, bạn cũng phải học nhận định điều gì có giá trị và điều gì không. Tất cả những trình tự đó đều đòi hỏi tập trung tư tưởng.
Các cách quan sát
Một lý do làm cho chúng ta không “nhìn thấy” gì nhiều, khi chúng ta đọc, là chúng ta không biết điều gì cần phải tìm kiếm. Đa số chúng ta cần “đầu mối” giúp ta biết cần tìm những điều gì. Một khi chúng ta học biết những điều gì cần quan sát, chúng ta bắt đầu khám phá được nhiều điều, mà trước đó chúng ta chưa hề thấy khi đọc lên.
Học cho biết quan sát các chi tiết là một kỹ năng đòi hỏi thời giờ và thực tập. Trong những trang sau là sơ đồ liệt kê các điều cần tìm kiếm khi đọc một đoạn văn. Đó chỉ là một cái nhìn tổng quát. Trong các chương kế tiếp, chúng sẽ được mô tả chi tiết hơn. Danh sách này chỉ trở nên có ý nghĩa đối với bạn khi bạn dấn thân tìm kiếm một vài đầu mối để khám phá điều tác giả muốn nói.
Bị tràn ngập bởi những quan sát ?
Khi bạn nghiên cứu danh sách ở những trang sau, là những điều đặc trưng bạn cần quan sát khi cố gắng phát triển khả năng quan sát của bạn, có thể bạn cảm thấy mình bị tràn ngập. Có lẽ bạn đang tự hỏi: “Làm sao tôi có thể chú ý đến hết mọi điều đó được? Có quá nhiều điều cần tìm kiếm cùng một lúc !”
Chúng tôi liệt kê nhiều thứ để giúp bạn làm quen với nhiều điều khác nhau mà bạn cần chú ý tới, nhưng học quan sát thì cũng giống như nhau như bất cứ kỹ năng nào. Bạn sẽ học mỗi lần một bước.
2. Chức năng nhận diện màu sắc, vật thể 3D, thẩm mỹ (ngón út tay trái)
Chức năng nhận diện màu sắc, vật thể 3D, thẩm mỹ là gì?Khả năng thẩm mỹ là khả năng cảm nhận cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Ngoài ra người có chức năng thẩm mỹ cao có thể hình dung vật thể 3D, và khả năng phối nhiều màu sắc.
Khái niệm thẩm mỹ trong khoa học:
Thẩm mỹ học là khoa học về cái đẹp. Chúng ta biết rằng một số các nhà tư tưởng đã phân biệt ba lý tưởng mà con người muốn đạt tới là Chân, Thiện, Mỹ. Ba kiểu mẫu này, mà sự phân biệt theo một số tác giả đã khởi từ Victor Cousin, là đối tượng của ba môn học khác nhau. Luận lý học hướng về đối tượng là cái Chân. Thật vậy, Luận lý học được định nghĩa là “khoa học có mục đích xác định trong những động tác trí tuệ hướng đến sự nhận thức chân lý, động tác nào là đúng, động tác nào là không đúng”. Tất nhiên, quan niệm về đối tượng Luận lý học của các triết gia thuộc các trường phái khác nhau, các triết gia quan tâm đến những ngành Luận lý học khác nhau, thường khác nhau. Luận lý học của Aristote không giống Luận lý học của Descartes và Bertrand Russell hay Bachelard. Đối tượng của Luận lý học hình thức không giống đối tượng của ngành Luận lý học mang tên Triết lý khoa học gồm Phương pháp luận và Khoa học luận. Nhưng mặc dầu những dị điểm về chi tiết, dị điểm ở bề mặt, Luận lý học dù của bất cứ triết gia hay trường phái nào, bất cứ ngành nào của Luận lý học, đều trực tiếp hay gián tiếp hướng đến mục tiêu chính yếu là: phải nghĩ thế nào để đạt được chân lý. Nói một cách phức tạp: Trong những động tác trí tuệ hướng đến sự nhận thức chân lý, động tác nào là đúng, động tác nào là không đúng, đó là đối tượng của Luận lý học. Cho nên, trong một phạm vi nào đó, có thể nói được một cách đơn giản là phạm vi khảo cứu của Luận lý học là phương pháp hướng tới cái Chân.
Thẩm mỹ là gì? Là cái nhìn của bạn về một vấn đề hay lĩnh vực gì đó. Giống như anh Quốc Trung nhận xét một số ca sỹ trong Việt Nam idol “em rất có thẩm mỹ âm nhạc”. Hầu hết những ca sỹ được xếp vào hàng ca sỹ đẳng cấp không phải vì giọng hát mà là thẩm mỹ trong việc chọn bài, xử lý bài hát. Ví dụ như mình rất thích anh Hà Anh Tuấn, giọng hát không hay nhưng cách chọn bài và xử lý bài hát rất “văn minh”. Hoặc mình thích Hà Trần trong quan điểm “đi con đường chưa ai đi”. Thật ra thẩm mỹ không hẳn là bạn phải hiểu rất rõ về lĩnh vực mà chỉ là cách nhìn. Bạn đứng trước một bức tranh của Picaso mà thấy dễ chịu là được, không nhất thiết phải hiểu tranh ấy có ý nghĩa gì.
Thẩm mỹ ở đâu mà có? Bắt nguồn từ kiến thức của bạn vê lĩnh vực đó. Nền tảng về kiến thức nó giúp bạn nhìn ra cái hay cai đẹp ẩn sau bên trong nó.
Có thể hình thành thẩm mỹ từ chuyện học hành, nhưng cũng có thể hình thành thầm mỹ từ cách tìm hiểu và có những thói quen tốt. Những cách sau đây giúp bạn xây dựng nền tảng cho thẩm mỹ của mình:
– Tập nghe nhạc một cách chăm chú
– Học tập thói quen đọc sách càng nhiều càng tốt
– Coi phim điện ảnh
– Đọc sách báo
– Tìm kiếm cho mình một sở thích đặc biệt và tìm hiểu kỹ về nó.
3. Chức năng nghe hiểu và ghi nhớ ngôn ngữ (ngón đeo nhẫn tay phải)
Ngôn ngữ là hệ thống để giao thiệp hay suy luận dùng một cách biểu diễn, phép ẩn dụ, và một loại ngữ pháp theo lôgic, mỗi cái đó bao hàm một tiêu chuẩn hay sự thật thuộc lịch sử và siêu việt. Nhiều ngôn ngữ sử dụng điệu bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ viết, và cố gắng truyền khái niệm, ý nghĩa, và ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những khía cạnh này nằm sát quá, cho nên khó phân biệt nó.
Chức năng nghe hiểu và ghi nhớ ngôn ngữ nằm ở ngón này có nghĩa là khả năng tiếp nhận thông tin đầu vào bằng ngôn ngữ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Làm gì để khuyến khích bé 2 tuổi nói câu hoàn chỉnh?
– Nên mở rộng cụm từ trong câu trả lời của bạn dựa trên những từ chính trẻ vừa nói, ví dụ: “Con muốn mẹ giúp con mang vớ phải không?”, “Được rồi, ba sẽ chơi bóng với con nhé”.
– Không nên chỉnh ngữ pháp của trẻ vì vẫn còn quá sớm để chỉ ra lỗi ở thời điểm này, bạn chỉ nên tình cờ lặp lại câu trẻ vừa nói và dùng đúng từ.
– Không nên nhấn mạnh và bắt trẻ lặp lại một câu đầy đủ như: “Con hãy nói: Mẹ giúp con mang vớ”, điều này chỉ khiến bé con thất vọng và phá vỡ sự phát triển bình thường của trẻ.
– Thường xuyên đọc sách cho trẻ nghe bằng cách tương tác, hỏi trẻ những gì trẻ thấy trong sách hoặc đố trẻ những gì sẽ xảy ra tiếp theo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Cuộc sống của mẹ
Có lẽ bạn không phải là người mẹ đầu tiên cảm thấy sự bề bộn đang tràn ngập trong tổ ấm của mình, thậm chí tăng lên theo thời gian khi bé con lớn dần.
Các bé 2 tuổi không chỉ luôn nằng nặc đòi mua thêm thật nhiều đồ chơi mới mà còn là những đồ chơi đi theo bộ hoặc “phức tạp” hơn như đồ chơi xếp hình lego, xếp hình ro bot, mô hình xe hơi… mà trẻ có thể tháo rời, lắp ghép và tha hồ khám phá.
Bạn nên thử bỏ từng loại đồ chơi vào một hộp đựng riêng, để tiết kiệm có thể tận dụng lại những hộp đựng khăn giấy ướt của bé. Thêm vào đó, bạn thử ra quy định là trẻ chỉ được chơi 1 hoặc 2 loại đồ chơi cùng lúc. Điều này giữ cho trẻ sự hào hứng và lâu chán đồ chơi mới, đồng thời sàn nhà của mẹ cũng sạch sẽ, gọn gàng hơn.
Quá trình hình thành ngôn ngữ của trẻ
Quá trình trẻ học Nói và hiểu từ luôn cần có sự tương tác của một đối tượng như đồ vật, sự việc, tình huống… Ví dụ: cho trẻ ăn thì từ “măm” gắn liền với bữa ăn của trẻ. Lúc đầu trẻ hiểu từng từ và dần dần biết cách nối các từ tạo câu ý nghĩa để biểu thị nhu cầu và hiểu biết của mình.
Khoảng từ 9-12 tháng tuổi, trẻ có thể phát âm một số “từ” đơn giản như: mỗi lần cho trẻ ăn, mẹ bảo “ạ” thì mẹ mới cho ăn. Sau đó, khi muốn được ăn, trẻ Nói “ạ”, ý Nói “cho con ăn đi”, hoặc muốn đi chơi, trẻ sẽ bập bẹ “đi, đi”.
Sau 12 tháng tuổi, trẻ chú ý đến cách phát âm của mọi người xung quanh, nghe rồi bắt chước và nhìn nhận đồ vật. Qua nhiều lần chơi, cầm nắm và quen với đồ vật, trẻ mới chú ý ‘’từ’’ và hiểu nghĩa của nó, để rồi phát âm gọi tên đồ vật. Vì vậy, để Nói và hiểu được ‘từ’, trẻ phải được nhiều lần tiếp xúc, được dạy phát âm.
Vào 18 tháng tuổi, trẻ hiểu được khoảng 20 “từ”. Vốn từ mà trẻ hiểu được nhiều hơn diễn đạt từ cùng thời điểm tuổi.
Sau 2 tuổi vốn từ của trẻ tănh nhanh: từ 100- 200 (2 tuổi), đến 1000- 2000 (3 tuổi). Dần dần trẻ biết phối hợp nhiều từ, và sắp xếp thứ tự thành câu cú.
Từ 4 tuổi trở đi, trẻ có thể Nói những câu gồm nhiều từ hơn, đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ và tân ngữ, biết phương thức giao tiếp dùng lời Nói và không dùng lời nói, bao gồm hiểu lời người khác và Nói được điều mình hiểu liên quan đến ngữ cảnh hợp với lứa tuổi.
Từ sau 5 tuổi, câu Nói của trẻ đúng ngữ pháp như câu của người lớn nói. Trẻ bắt đầu học ngôn ngữ viết, chuẩn bị cho việc đến trường.
Chức năng nghe hiểu và ghi nhớ ngôn ngữ nằm ở ngón này có nghĩa là khả năng tiếp nhận thông tin đầu vào bằng ngôn ngữ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Làm gì để khuyến khích bé 2 tuổi nói câu hoàn chỉnh?
– Nên mở rộng cụm từ trong câu trả lời của bạn dựa trên những từ chính trẻ vừa nói, ví dụ: “Con muốn mẹ giúp con mang vớ phải không?”, “Được rồi, ba sẽ chơi bóng với con nhé”.
– Không nên chỉnh ngữ pháp của trẻ vì vẫn còn quá sớm để chỉ ra lỗi ở thời điểm này, bạn chỉ nên tình cờ lặp lại câu trẻ vừa nói và dùng đúng từ.
– Không nên nhấn mạnh và bắt trẻ lặp lại một câu đầy đủ như: “Con hãy nói: Mẹ giúp con mang vớ”, điều này chỉ khiến bé con thất vọng và phá vỡ sự phát triển bình thường của trẻ.
– Thường xuyên đọc sách cho trẻ nghe bằng cách tương tác, hỏi trẻ những gì trẻ thấy trong sách hoặc đố trẻ những gì sẽ xảy ra tiếp theo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Cuộc sống của mẹ
Có lẽ bạn không phải là người mẹ đầu tiên cảm thấy sự bề bộn đang tràn ngập trong tổ ấm của mình, thậm chí tăng lên theo thời gian khi bé con lớn dần.
Các bé 2 tuổi không chỉ luôn nằng nặc đòi mua thêm thật nhiều đồ chơi mới mà còn là những đồ chơi đi theo bộ hoặc “phức tạp” hơn như đồ chơi xếp hình lego, xếp hình ro bot, mô hình xe hơi… mà trẻ có thể tháo rời, lắp ghép và tha hồ khám phá.
Bạn nên thử bỏ từng loại đồ chơi vào một hộp đựng riêng, để tiết kiệm có thể tận dụng lại những hộp đựng khăn giấy ướt của bé. Thêm vào đó, bạn thử ra quy định là trẻ chỉ được chơi 1 hoặc 2 loại đồ chơi cùng lúc. Điều này giữ cho trẻ sự hào hứng và lâu chán đồ chơi mới, đồng thời sàn nhà của mẹ cũng sạch sẽ, gọn gàng hơn.
Quá trình hình thành ngôn ngữ của trẻ
Quá trình trẻ học Nói và hiểu từ luôn cần có sự tương tác của một đối tượng như đồ vật, sự việc, tình huống… Ví dụ: cho trẻ ăn thì từ “măm” gắn liền với bữa ăn của trẻ. Lúc đầu trẻ hiểu từng từ và dần dần biết cách nối các từ tạo câu ý nghĩa để biểu thị nhu cầu và hiểu biết của mình.
Khoảng từ 9-12 tháng tuổi, trẻ có thể phát âm một số “từ” đơn giản như: mỗi lần cho trẻ ăn, mẹ bảo “ạ” thì mẹ mới cho ăn. Sau đó, khi muốn được ăn, trẻ Nói “ạ”, ý Nói “cho con ăn đi”, hoặc muốn đi chơi, trẻ sẽ bập bẹ “đi, đi”.
Sau 12 tháng tuổi, trẻ chú ý đến cách phát âm của mọi người xung quanh, nghe rồi bắt chước và nhìn nhận đồ vật. Qua nhiều lần chơi, cầm nắm và quen với đồ vật, trẻ mới chú ý ‘’từ’’ và hiểu nghĩa của nó, để rồi phát âm gọi tên đồ vật. Vì vậy, để Nói và hiểu được ‘từ’, trẻ phải được nhiều lần tiếp xúc, được dạy phát âm.
Vào 18 tháng tuổi, trẻ hiểu được khoảng 20 “từ”. Vốn từ mà trẻ hiểu được nhiều hơn diễn đạt từ cùng thời điểm tuổi.
Sau 2 tuổi vốn từ của trẻ tănh nhanh: từ 100- 200 (2 tuổi), đến 1000- 2000 (3 tuổi). Dần dần trẻ biết phối hợp nhiều từ, và sắp xếp thứ tự thành câu cú.
Từ 4 tuổi trở đi, trẻ có thể Nói những câu gồm nhiều từ hơn, đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ và tân ngữ, biết phương thức giao tiếp dùng lời Nói và không dùng lời nói, bao gồm hiểu lời người khác và Nói được điều mình hiểu liên quan đến ngữ cảnh hợp với lứa tuổi.
Từ sau 5 tuổi, câu Nói của trẻ đúng ngữ pháp như câu của người lớn nói. Trẻ bắt đầu học ngôn ngữ viết, chuẩn bị cho việc đến trường.
4. Chức năng cảm nhận âm nhạc, âm vực là gì (ngón đeo nhẫn tay trái)
Chức năng cảm nhận âm nhạc, âm vực là gì?
Cảm âm trong âm nhạc là có thể ghi nhớ giai điệu, trường độ, âm vực của nốt nhạc rất tốt. Tuy nhiên nếu người có chức năng cảm thụ âm nhạc tốt cũng có thể phân biệt sắc thái tình cảm trong giọng nói của người mà mình tiếp xúc.
Phát triển kỹ năng cảm âm cho trẻTheo một nghiên cứu của Đại học Northwestern, những trẻ có khả năng cảm thụ âm nhạc có thể xử lý âm thanh tốt đồng thời kỹ năng đọc và sử dụng ngôn ngữ cũng thành thạo hơn.
Các nhà khoa học đã tiến hành thí nghiệm về kỹ năng cảm âm của 124 học sinh thuộc trường phổ thông Chicago, Hoa Kỳ. Mỗi học sinh được kiểm tra khả năng cảm nhận tiết tấu, sau đó các nhà khoa học đo phản ứng của não với những âm thanh này.
Tiến sỹ Nina Kraus, Giám đốc Viện nghiên cứu Thần kinh học Northwestern đồng thời là tác giả của nghiên cứu, cho biết: “Khi tai nghe thấy âm thanh, các nơron thần kinh trong bộ não phát đi các xung điện vì vậy chúng tôi có thể thu được những tín hiệu này”.
Sau khi so sánh kết quả, tiến sỹ Kraus và nhóm của bà phát hiện ra những học sinh có khả năng cảm âm tốt nhất là những em có não phản ứng với âm thanh mạnh nhất, đây cũng là dấu hiệu mà theo các nhà nghiên cứu là có quan hệ mật thiết với kỹ năng đọc hiểu và khả năng ngôn ngữ.
“Con người tạo ra âm thanh để giao tiếp. Khi biết đọc con người sẽ biết cách liên kết những gì chúng ta nghe thấy và từ ngữ chúng ta thấy trong sách”, tiến sỹ Kraus nói.
Khả năng liên kết âm thanh và từ ngữ trong sách đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kỹ năng đọc hiểu của trẻ.
Những nghiên cứu trước đây đã chứng minh khi nơron thần kinh của trẻ phản ứng chậm với âm thanh, trẻ sẽ gặp khó khăn trong việc đọc hiểu và học ngôn ngữ thậm chí sẽ dẫn đến hội chứng khó đọc.
Ngoài ra, tiến sỹ Kraus chỉ ra khả năng xử lý âm thanh liên quan đến khả năng lắng nghe âm thanh trong đám đông, một kỹ năng rất cần thiết trong môi trường lớp học.
Nghiên cứu này đã chỉ ra tầm quan trọng của âm nhạc với trẻ em như thúc đẩy các kỹ năng nghe, đọc và khả năng ghi nhớ âm thanh.
Kinh nghiệm luyện cảm âm cho người lớn
Cách của mình là mò, mới đầu sẽ rất nhàm chán nhưng về sau thi mới thấykỳ diệu, ví dụ bạn chơi vòng hợp âm Am cho một bài hát mới, bạn đừng xem trên mạng ngươi ta đánh ntn ban hãy mò, hợp âm nào bạn thấy hợp lý với 1 câu nào đó trong bài hát thi bạn ghi nhớ nó, khi bạn mò hết bài hát rồi mới xem clip của những người chơi rành và so sánh. nếu giông được 80% thì khả nag cảm âm của bạn sẽ ok trong thời gian ngắn thôi. chúc may măn.
Bạn chỉ mới biết chút chút vào bài classic mà muốn cảm âm bài hát thì phải cố gắng nhiều.
Trước hết bạn phải biết nhạc lý và hòa âm bài hát, biết viết hợp âm cho những bài hát có sẵn nốt nhạc. Tức là nhìn vào 1 bản nhạc bất kỳ bạn phải xác định được chủ âm (hay còn gọi là tông gì, giọng gì). Rồi sau đó phải biết mỗi chủ âm như vậy thì gồm những hợp âm nào đi theo. Đồng thời cũng phải biết quy luật của 1 số vòng hợp âm cơ bản để có những hòa âm hay.
Sau đó bạn phải tập nghe, phân tích và đệm bài hát, trước hết là nghe chủ âm, rồi nghe các đặc tính của các hợp âm đi cùng nó. Vừa nghe vừa đệm đàn theo để cảm âm. Bắt đầu từ những bài quen thuộc và mình đã biết hợp âm, sau đó đi đến những bài khó hơn.
Trước hết, bạn phải tập nghe và nhận biết được 3 hợp âm chính của bài hát: Bậc I, IV và V. Sau đó mới đến các bậc khác: III, VI …
Nói như vậy nhưng cách nghe cũng rất phức tạp, không phải muốn là làm được liền và tốt nhất là phải có người hướng dẫn cách nghe, cách phân biệt và cách chạy hợp âm. Tự mình mày mò thì rất lâu mới làm được, và thực sự thì cái này phải vừa thực hành trên đàn vừa nói và giải thích thì mới dễ hiểu, chứ ngồi viết bài hướng dẫn thì rất khó diễn tả như thế nào cho hiểu.
Để nắm bắt được cách cảm âm, bạn nên đọc các bài viết của mình trên 4rum này, đặc biệt là các bài viết thảo luận trong chuyên mục Guitar modern (Đệm đàn – tán gái, cách chọn hợp âm, ….), những bài viết đó sẽ rất có ích cho bạn.
5. Chức năng vận động tinh (ngón giữa tay phải)
Chức năng vận động tinh là gì?
Kỹ năng vận động tinh (fine motor skills): là khả năng điều khiển bàn tay và các ngón tay. Kỹ năng vận động tinh phát triển tùy theo việc chơi-tập luyện của trẻ. Đồ chơi trẻ sơ sinh, khối lắp ghép, đồ chơi nghệ thuật, sẽ giúp trẻ tập cầm nắm đồ chơi, xoay, vặn, siết, lắp ghép khối, v.v. và tập làm các động tác phức tạp hơn như thêu, đan, nặn tượng, vẽ tranh. Kỹ năng vận động tinh là cơ sở để trẻ phát triển khả năng nghệ thuật của đôi tay và luyện viết chữ đẹp.
Các mốc phát triển vận động tinh ở trẻ
Vận động tinh/Kỹ năng đáp ứng
Mở nắm tay 3 tháng
Đưa đồ vật vào đường giữa cơ thể 4 tháng
Chuyển đổi ( từ tay này sang tay kia) 5 tháng
Với và nắm một bên 6 tháng
Ăn bốc bằng tay 9 tháng
Biết sử dụng ly mà không cần trợ giúp 9 tháng
Cầm đồ vật bằng hai ngón trỏ và cái 10-11 tháng
Biết sử dụng muỗng 12 tháng
Biết buông đồ vật tự ý 12 tháng
Có biểu hiện thuận tay 24 tháng
Các trò chơi luyện khả năng vận động tinh cho trẻ
1. Con Thỏ Ăn Cỏ
– NĐK: (hô) con thỏ
– NC: (lập lại) con thỏ
– NĐK: (hô) ăn cỏ
– NC : (lập lại) ăn cỏ và chụm các ngón tay phải để vào lòng bàn tay trái
– NĐK: (hô) uống nước
– NC : (lập lại) uống nước và chụm các ngón tay phải để vô miệng
– NĐK: (hô)vô hang
– NC : (lập lại) vô hang và chụm các ngón tay phải để vô lỗ tai
* Lưu ý: NC chỉ làm theo những gì NĐK hô. Ai sai bị phạt.
2. Trời – Đất – Nước
Người Điều Khiển chỉ từng người hô:
– NĐK: trời -NC: nói một loài vật bay trên trời (con cò)
– NĐK: Đất -NC: nói một loài vật sống trên đất (con heo)
– NĐK: Nước -NC: nói một loài vật sống dưới nước (cá rô)
* Lưu ý: Ai nói một loài vật không rõ, nói sai hoặc lập lại cái đã nói rồi thì bị phạt.
3. Sống – Chết, Thiên Đàng – Hỏa Ngục
(Tất cả đứng vòng tròn)
– NĐK: (hô) Sống -TC: Chạy tại chỗ
– NĐK: Chết -TC: Đứng nghiêm
– NĐK: Thiên đàng -TC: Giơ hai tay lên trời
– NĐK: Hỏa ngục -TC: Ngồi xuống
*Lưu ý: NC chỉ làm theo những gì NĐK hô. Ai sai bị phạt.
4. Cây Mấy Đầu
NĐK chỉ từng người hỏi:
– NĐK: Một cây mấy đầu? NC: (nói) 2 đầu
– NĐK: Nửa cây mấy đầu ? NC: 2 đầu
– NĐK: Một cây rưỡi ? NC: 4 đầu
* Lưu ý: Cứ thế tiếp tục hỏi bất cứ mấy cây cũng được (vì một cây cũng 2 đầu, nửa cây cũng 2 đầu), do đó một cây rưỡi cũng bốn đầu.
5. Chào Binh – Chào Bô
– NĐK: (hát hoặc đọc) chào binh, chào bô, chào tăng gô, chào nam mô, em chào cụ đồ chúng em xin chào cô và sau hết xin chào sạc lô.
– NĐK: (hô) chào binh NC: tay phải đưa lên trán, lòng bàn tay úp xuống, chào theo kiểu nhà binh
– NĐK: Chào bô NC: Hai tay chắp trước ngực
– NĐK: Chào tăng gô NC: Hai tay đàn gui ta
– NĐK: chào nam mô NC: hai tay chắp lại đặt trước ngực và cúi đầu
– NĐK: Chào cụ đồ NC: Khoanh hai tay cúi đầu
– NĐK: Chào cô NC: Hai tay đưa ra trước vòng xuống dưới, nhún một cái
– NĐK: Chào sạc-lô NC: Nắm hai ống quần nhún một cái
* Lưu ý: NĐK: hô bất cứ chào làm sao ? Thì người chơi phải làm theo lời NĐK chứ không được làm theo cử điệu.
6. Bằng – Ah
NĐK chỉ từng người và hô:
– NĐK: (hô) Bằng (hai tay chắp lại chĩa vào NC)
– NC : (hô) Ah (đưa hai tay lên trời)
– NĐK: (hô) Ah (đưa hai tay lên trời)
– NC: (hô) Bằng (hai tay chắp lại chĩa vào NĐK)
* Lưu ý: NĐK hô bằng thì NC hô Ah và ngược lại.Và NĐK nên nói nhanh để đánh lừa NC.
7. Súng – Sói – Người
* Nguyên tắc : Súng bắn sói
Sói cắn người
Người điều khiển được súng
+ Súng : 2 tay chắp chĩa vào người kia.
+ Sói : 2 tay giơ lên hai lỗ tai xòe ra
+ Người : đứng nghiêm xuôi tay.
NĐK chỉ vào người chơi và làm những động tác:
– NĐK: làm động tác súng NC: phải làm động tác người
– NĐK: làm động tác sói NC: phải làm động tác súng
– NĐK: làm động tác người NC: phải làm động tác sói
* Lưu ý: NC phải thắng NĐK ai thua bị phạt
8. Chưởng – Chỉ – Chỏ – Chảo
+ Chưởng: Tay đẩy về phía trước
+ Chỉ: Chỉ ngón trỏ về phía trước
+ Chỏ: Làm động tác đánh chỏ
+ Chảo: Đưa tay phải ra trước, lòng bàn tay úp xuống rồi đánh hất ngửa lòng bàn tay lên.
NĐK hô:
– NĐK: Chưởng,rồi làm động tác chưởng – TC: Lập lại và làm động tác chưởng
– NĐK: Chỉ,rồi làm động tác chỉ – TC: Lập lại và làm động tác chỉ
– NĐK: Chỏ,rồi làm động tác chỏ – TC: Lập lại và làm động tác chỏ
– NĐK: Chảo,rồi làm động tác chảo – TC: Lập lại và làm động tác chảo
* Lưu ý: NĐK có thể hô một đàng làm một nẻo, còn TC chỉ làm theo NĐK hô chứ đừng làm theo cử điệu
9. Ai Là Vua
NĐK chỉ từng người và nói:
– NĐK: Ai là vua ?
– NC : Ta là vua (giơ 2 tay lên)và hai người bên cạnh người được chỉ nói: Tâu bệ hạ (chắp tay cúi phục người xuống)
* Lưu ý: Người tâu phải cúi thấp hơn vua ai sai bị phạt.
10. Cõng Mẹ – Đánh Cọp
– NĐK: (hô) Cõng mẹ NC: Đưa trỏ ra trước
– NĐK: Đánh cọp NC: Tay phải đẩy về trước
– NĐK: Đánh mẹ NC: Đứng im
– NĐK: Cõng cọp NC: Đứng im
* Lưu ý: Khi NĐK hô: đánh mẹ và cõng cọp, NC không được làm động tác nào, ai sai bị phạt.
11. Cua – Cò – Cá
– NĐK: (hô) Cua NC: Đưa tay phải ra trước-úp bàn tay xuống
– NĐK: Cò NC: Đưa tay phải lên cong như cổ cò
– NĐK: Cá NC: Úp hai bàn tay lại
* Lưu ý: Làm theo lời nói của NĐK
12. Lò – Cò – Bò – Giò – Sò
– NĐK: Con bò – TC: Giơ 2 tay lên đầu làm sừng
– NĐK: Bếp lò – TC: 2 tay om vòng trước ngực
– NĐK: Xe bò -TC: 2 tay quay tròn trước ngực
– NĐK: Cái giò -TC: Co chân phải đưa ra phía trước
– NĐK: Vỏ Sò -TC: 2 bàn tay chụm lại với nhau làm như vỏ sò
* Lưu ý: Làm theo lời nói của NĐK chứ không làm theo động tác.
13. Ba – Má – Tôi
– Ba : Để tay lên đầu
– Má : Để 2 tay lên má
– Tôi : Khoanh tay chéo trước ngực
* Lưu ý: NĐK hô và làm bất cứ động tác nào NC phải làm theo. Chỉ làm theo lời NĐK hô.NĐK có thể hô một đàng nhưng làm một nẻo.
14. Công – Thưởng, Tội – Phạt
+ Công : Giang 2 tay ngang vai
+ Thưởng: Đưa 2 tay lên trời
+ Tội : Đứng im
+ Phạt : Ngồi xuống
* Lưu ý: NĐK hô và làm bất cứ động tác nào NC phải làm theo. Chỉ làm theo lời NĐK hô.NĐK có thể hô một đàng nhưng làm một nẻo.
15. Dài – Ngắn; Cao – Thấp
+ Dài : Giang 2 tay ra
+ Ngắn : Chấp hai tay phía trước
+ Cao : Tay phải giơ lên cao, tay trái xuôi xuống
+ Thấp : Úp 2 bàn tay phía trước
* Lưu ý: NĐK hô và làm bất cứ động tác nào NC phải làm theo. Chỉ làm theo lời NĐK hô.NĐK có thể hô một đàng nhưng làm một nẻo.
16. Nhập – Chế Biến – Xuất Khẩu
+ Nhập : Đưa 2 tay lên miệng
+ Chế biến: 2 tay úp vào bụng
+ Xuất khẩu: 2 tay xuôi sau đít
* Lưu ý: NĐK hô và làm bất cứ động tác nào NC phải làm theo. Chỉ làm theo lời NĐK hô.NĐK có thể hô một đàng nhưng làm một nẻo.
17. Huế – Saigòn – Hà Nội
+ Huế : Đứng nghiêm
+ Sài gòn: Ngồi xuống
+ Hà Nội: Giơ 2 tay lên đứng thẳng
* Lưu ý: NĐK hô và làm bất cứ động tác nào NC phải làm theo. Chỉ làm theo lời NĐK hô.NĐK có thể hô một đàng nhưng làm một nẻo.
18. Chơi – Học – Cầu Nguyện
+ Chơi : Chạy tại chỗ
+ Học : Giơ 2 tay ra trước như cầm cuốn tập
+ Cầu nguyện: Chắp hai tay lại để trước ngực, mắt ngước lên trời như đang cầu nguyện
* Lưu ý: NĐK hô và làm bất cứ động tác nào NC phải làm theo. Chỉ làm theo lời NĐK hô.NĐK có thể hô một đàng nhưng làm một nẻo.
19. Xuân – Hạ – Thu – Đông
+ NĐK: Xuân -TC: (hô) Vui rồi cười vui tươi
+ NĐK:Hạ -TC: (hô) Nực rồi lấy tay quạt quạt
+ NĐK:Thu -TC: (hô) Buồn rồi để tay phải áp má
+ NĐK: Đông -TC: (hô) Lạnh rồi 2 tay chéo ngực rung rung
20. Rừng – Sông – Núi
+ NĐK hô: – TC hô: Rừng : băng và làm động tác chạy tại chỗ
+ NĐK hô: Sông – TC hô: lội và cúi xuống làm động tác xắn hai ống quần lên
+ NĐK hô: Núi – TC hô: Trèo và làm động tác như đang leo núi
* Lưu ý: NĐK hô và làm cử điệu để TC cùng làm theo, nhưng có thể hô một đàng, làm một nẻo; còn TC chỉ làm theo lời NĐK hô.
21. Trăng – Mây – Gió – Mưa
+ Trăng : Sáng
+ Mây : Bay
+ Gió : Thổi
+ Mưa : Rơi
* Lưu ý: NĐK hô trăng thì NC hô sáng và ngược lại NĐK hô sáng thì NC hô trăng, ai nói sai thì bị phạt
22. Nú – Ní – Ná
+ Nu nú : Chỉ vào lỗ mũi
+ Ni ní : Chỉ vào lỗ tai
+ Na ná : Chỉ vào cằm
* Lưu ý: NĐK hô động tác nào thì TC phải chỉ đúng động tác ấy vào cơ thể mình. Còn NĐK nói một đàng nhưng làm một nẻo.
23. Trán – Cằm – Tai
– NĐK: (hát hoặc đọc) Trán cằm tai, trán cằm tai, chán tai tai cằm tai, chán tai tai cằm tai.
* Lưu ý: NĐK:đọc hoặc hát tới đâu thì người chơi phải chỉ vào cơ thể mình cho đúng lời (trán cằm tai) tốc độ từ chậm đến nhanh. Ai sai bị phạt. Có thể chế biến : gối đầu mông …
24. Kẹo – Bánh – Mứt
– NĐK: hô kẹo hoặc bánh mứt và chỉ một người, người này phải nói 1 loại kẹo hoặc bánh hoặc mứt mình biết. Vd : NĐK hô : kẹo – NC: kẹo chanh
* Lưu ý : Ai không nói nhanh hoặc trùng với người trước thì bị phạt
25. Bắn Chim
– NĐK chỉ một người và bắn : bằng, người này té xuống (ngồi xuống). Hai người hai bên xòe cánh bay đi (giang hai tay)
* Lưu ý: Ai không phản ứng nhanh bị phạt
26. Tai Thỏ
– NĐK (Chỉ một người và bắn : bằng, người này la ái một cái. Hai người hai bên, một người đưa bàn tay phải và một người đưa bàn tay trái kề sát người bị bắn làm “tai thỏ”
6.Chức năng vận động thô (Ngón giữa tay trái)
Chức năng vận động thô là gì?
Kỹ năng vận động thô (gross motor skills): là sự phát triển và phối hợp của các nhóm cơ lớn của cơ thể trẻ, bao gồm khả năng lăn, bò trườn, xoay cơ thể, đi, chạy, đá chân, ném, vung tay, kéo, đẩy, leo trèo, v.v. Trẻ phát triển kỹ năng vận động thô trước kỹ năng vận động tinh. Trò chơi vận động và đồ chơi thể thao, đồ chơi nước giúp trẻ tập vận động tay, chân, tập phản xạ, độ uyển chuyển, phối hợp giác quan và các chi.
Các mốc phát triển vận động thô ở trẻ:
Điểm mốc Tuổi trung bình đạt được
Vận động thô ( Tháng)
Chỉ nâng được đầu 1 tháng
Nâng đầu khi nằm sấp chống tay 4 tháng
Lật từ sấp sang ngửa 4 tháng
Lật từ ngửa sang sấp 5 tháng
Ngồi có trợ giúp 5 tháng
Ngồi một mình 6 tháng
Tự ngồi lên 8 tháng
Bò 8 tháng
Bám đứng lên 9 tháng
Đi có bám 9 tháng
Đi một mình 12 tháng
Chạy 15 tháng
Bước lên cầu thang 21 tháng
Bước xuống cầu thang 27 tháng
Đạp xe ba bánh 36 tháng
Nhảy quãng 60 tháng
Đạp xe hai bánh 72 tháng
Mốc phát triển vận động thô là điểm dễ nhớ nhất đối với hầu hết cha mẹ và đây cũng là câu hỏi mở đầu mà không gây một đe doạ nào. Dùng độ tuổi mà các mốc trẻ đạt được, đánh giá sự tiến triển là chỉ số đánh giá vận động tốt nhất , chỉ số này được định nghĩa là tuổi vận động / tuổi thật. Chỉ số vận động thô dưới 50 ở trẻ khi không có bệnh lý tiến triển, thì cuối cùng sẽ có đi kèm với khuyết tật về chức năng vận động. Chỉ số vận động thô bằng hoặc trên 50 hầu như không có vấn đề khuyết tật về vận động lâu dài về sau. Có một số ngoại lệ, trẻ bị liệt nửa người có thể chỉ có hơi chậm trễ ở mốc phát triển vận động thô lúc còn nhỏ nhưng có thể có khuyết tật rõ ràng sau này về chức năng vận động thô và vận động tinh.
Đừng bao giờ sử dụng các mốc phát triển vận động thô như là một yếu tố chỉ dẫn nhằm đánh giá phát triển nhận thức. Sự phát triển về vận động tốt có thể thấy ở những trẻ có khuyết tật về trí tuệ nặng, ngược lại có nhiều trẻ và người lớn bị bại não nặng nhưng lại có trí tuệ ở mức bình thường hoặc trên bình thường và là người hữu ích. Tuy nhiên, mặc dù không có khả năng dự báo hữu ích về chất lượng nhưng cũng có mối liên hệ về chất lượng giữa phát triển vận động và nhận thức. Những bất thường về vận động có nhiệm vụ như một yếu tố chỉ dẫn hữu ích đối với các bất thường về phát triển không liên quan đến vận động. Như đã nói ở trên, các khuyết tật về trí tuệ và các khuyết tật về phát triển không liên quan đến vận động khác có thể biểu hiện khởi đầu bằng bất thường về vận động trước khi khuyết tật về chức năng có ý nghĩa hơn trở nên rõ ràng. Điều này đúng ngay cả khi các bất thường về vận động ở mức độ nhẹ và không gây ra khuyết tật về vận động( ví dụ có nhiều trẻ chậm phát triển tâm thần có chậm phát triển vận động trước đó nhưng các chậm phát triển vận động này chỉ ở mức nhẹ, cuối cùng trẻ vẫn có thể đi lại thực hiện các chức năng được nhưng trẻ có chậm phát triển về nhận thức).
Một số trò chơi cải thiện khả năng vận động thô ở trẻ
Do đó, càng tạo nhiều cơ hội để trẻ luyện tập các kỹ năng này mỗi ngày càng giúp ích cho sự phát triển về thể chất của trẻ. Dưới đây là một số hoạt động rèn luyện các kỹ năng vận động thô cho trẻ:
Tập thể dục
Bố mẹ nên cùng tập thể dục với bé. Hầu hết trẻ mới tập đi chỉ phải học cách đi và chạy và cần luyện tập nhiều lần. Hãy dắt bé đi trên nhiều bề mặt khác nhau như cỏ, sỏi hoặc cát để rèn luyện và cải thiện các kỹ năng giữ thăng bằng trong cơ thể. Cho bé tập leo cầu thang với sự giúp đỡ của bạn. Leo trèo là một bài tập rất tốt để kích thích ý thức thiên một bên người của trẻ (thuận bên trái hoặc bên phải). Hãy cho bé chơi với một quả bóng lớn bằng cách thao tác: đá quả bóng lần lượt bằng hai chân, chụp bóng, ném bóng, lăn bóng…
Âm nhạc
Bật nhạc lên cùng nhảy múa với bé. Những bài hát có vận động tay chân là cách thức sáng tạo để trẻ nâng cao kỹ năng vận động thô. Hoặc có thể cho bé xem các đoạn phim ca nhạc thiếu nhi để bé bắt chước theo các hành động. Tập cho bé đi nhấc cao đầu gối như thể đang đi diễu hành giống các chú bộ đội.
Chơi trò chơi
Có rất nhiều trò chơi phát triển kỹ năng vận động thô như trò đuổi bắt, trốn tìm… Các trò chơi này rất đơn giản và năng động mà bất cứ một đứa trẻ nào cũng thích chơi. Khi bé lớn hơn một chút hãy tập cho bé chơi trò nhảy cóc, nhảy dây… Các hoạt động này không chỉ góp phần rèn luyện kỹ năng vận động thô mà còn giúp trẻ tăng cường các kỹ năng xã hội.
Giả bộ
Một trò chơi thú vị để chơi cùng bé là trò “Bạn là con vật gì?” Trò này sẽ giúp con vận động và sử dụng nhiều nhóm cơ. Yêu cầu bé bắt chước chuyển động của nhiều con vật khác nhau. Ví dụ như: bò như rắn, nhảy như ếch, đi lạch bạch như vịt, leo trèo như khỉ…Ngoài việc giúp các cơ của bé thêm linh hoạt, các bài tập này còn kích thích trí tưởng tượng của bé phát triển.
Tô màu
Các đứa trẻ thường rất thích tô màu. Cho bé một quyển sách tô màu và bút chì màu. Cho bé nằm ra sàn nhà để tô để tập cho hông và vai thêm cứng cáp. Hoặc có thể treo giấy tô màu lên giá vẽ để bé ngồi trên đầu gối và tô màu. Để tô màu, trẻ cần nâng mông lên khỏi gót chân, cho nên sẽ tập cách giữ cân bằng cho cơ hông.
Làm việc nhà
Cho bé cơ hội giúp đỡ bạn bằng những việc vặt trong nhà: phủi bụi, xếp quần áo, làm vườn…với các kiểu vận động và tư thế khác nhau. Bé sẽ càng phát triển kỹ năng vận động thô và trở nên ‘trưởng thành’ hơn khi biết giúp mẹ làm việc nhà.
Đồ chơi khối lắp ráp
Có nhiều cách chơi bằng các khối lắp ráp: chồng lên, tháo xuống, xếp thành hàng dài để bé bước qua hoặc lăn bóng làm rơi các tòa tháp… Bạn có thể nghĩ ra bất cứ trò chơi nào bạn thích để chơi cùng bé miễn sao thông qua các trò chơi này bé có thể vận động tay chân và rèn luyện các kỹ năng vận động thô.
7.Chức năng tư duy logic, suy luận là gì ( ngón trỏ tay phải)
Chức năng tư duy logic, suy luận là gì?
Tư duy logic là hoạt động của não bộ để giải quyết một vấn đề. Tư duy logic cần dữ liệu đầu vào và não bộ sẽ phân tích để ra được hướng giải quyết.
Người có khả năng tư duy logic cao là người có khả năng suy nghĩ và giải quyết vấn đề tốt dựa trên những dữ liệu, dữ kiện có sẵn trong não bộ. Dữ liệu này có thể là kiến thức hoặc kinh nghiệm của người đó.
Làm gì để cải thiện khả năng tư duy logic
– Đọc sách: Đọc sách chính là cách để rèn luyện kĩ năng nhận thức và tăng cường vốn từ vựng của bạn. Chọn sách văn học, khoa học hay những quyển sách nâng cao tính chuyên môn nghề nghiệp để đọc, sẽ giúp bộ não của bạn hoạt động tích cực hơn.
– Tham gia một khoá học: Hãy học một điều gì đó mới mẻ, chẳng hạn như đăng kí tham gia lớp nấu ăn, cắm hoa hay hội hoạ, v.v…Bản thân bạn sẽ gặp những thách thức vì phải hấp thụ những khái niệm, những thông tin và ý tưởng mới, và giữ lại những kĩ năng cần thiết suốt quá trình ghi nhớ của bộ não.
– Học ngoại ngữ: Bạn nên biết rằng học ngoại ngữ chính là cách để bộ óc của bạn linh hoạt, suy nghĩ được nhạy bén, giúp rút ngắn tính chậm chạp của quá trình suy nghĩ lão hoá theo tuổi tác. Mặt khác, còn giúp bạn giao tiếp với người nước ngoài dễ dàng hơn.
– Chơi game: Rủ bạn bè tham gia một trò chơi, chẳng hạn như chơi cờ… Bên cạnh đó, các hoạt động xã hội cũng giúp trí óc bạn linh hoạt hơn. Vì khi đó, bạn sẽ phải vận dụng trí nhớ và các kĩ năng tư duy logic của mình.
– Chơi ô chữ: sẽ giúp bạn trau dồi những kinh nghiệm, hiểu biết và củng cố lượng từ vựng của bạn.
– Tranh luận: Một cuộc thảo luận sẽ làm tinh thần bạn thêm hăng hái. Miễn là bạn cố gắng đừng đi lạc đề thành một cuộc cãi vã, bạn sẽ rèn luyện được lối tư duy nhanh, sắc sảo, logic và sáng tạo.
Các loại hình tư duy phổ biến
Tư duy khoa học.
Tư duy khoa học là tư duy có mục đích đảm bảo sự chính xác, hợp với các quy luật tư nhiên và dựa trên các chứng cứ xác thực. Vì vậy tư duy khoa học là tư duy lôgic biện chứng duy vật. Yêu cầu đối với tư duy khoa học là các kết luận của tư duy khoa học phải kiểm chứng được và được kiểm chứng. Khoa học nghiên cứu sâu về từng hiện tượng, sự vật và các mối quan hệ trực tiếp, vì vậy tính chất chủ yếu của tư duy khoa học là phân tích, hay đặc trưng của tư duy khoa học là tư duy phân tích.
Tư duy nghệ thuật.
Tư duy nghệ thuật là tư duy tìm kiếm mọi hình thức thể hiện của nội dung các sự vật, sự việc, các vấn đề, nói chung là nội dung của các đối tượng tư duy và tìm những cách thể hiện rõ nhất, đặc trưng nhất, đầy đủ nhất, ấn tượng nhất của các nội dung đó. Nếu nói chức năng của khoa học là tìm kiếm các yếu tố, các mối quan hệ của đối tượng thì có thể nói khoa học đi tìm nội dung của các đối tượng đó, còn nghệ thuật lại tìm kiếm các hình thức thể hiện của các đối tượng đó. Sự tiến triển của lịch sử đã làm cho nghệ thuật chỉ tập chung vào chức năng tìm kiếm cách thể hiện ấn tượng nhất, nghĩa là thể hiện cái đẹp. Hai thủ pháp chính để nghệ thuật thể hiện cái đẹp là đặt cái đẹp lên vị trí cao nhất và đặt cái đẹp vào vị trí tương phản với cái xấu. Tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ. Nếu không tìm được nội dung thì nghệ thuật chẳng có gì để thể hiện, ngược lại nếu khoa học không biết cách để thể hiện những cái mà khoa học tìm ra thì chẳng ai có thể biết hoặc hiểu đó là cái gì và nó như thế nào. Tư duy nghệ thuật cũng còn liên quan đến nhiều loại hình tư duy khác.
Tư duy triết học. tư duy xem xét các yếu tố, các đối tượng trên mọi mối quan hệ, cả trực tiếp và gián tiếp. Đặc trưng của tư duy triết học là tư duy tổng hợp. Yêu cầu đặt ra cho quá trình tư duy triết học là phải đặt các đối tượng tư duy trong môi trường thực vận động của nó xem xét đồng thời nhiều đối tượng hoặc một đối tượng trong nhiều môi trường khác nhau để tìm ra cái chung nhất, mối quan hệ phổ biến nhất giữa các đối tượng hoặc cái đặc trưng nhất của đối tượng. Với đặc trưng của tư duy khoa học là phân tích và của tư duy triết học là tổng hợp, khoa học và triết học ngày nay có mối quan hệ khăng khít và bổ xung cho nhau trong quá trình nhận thức thế giới (quan niệm này trước đây chưa có)
Tư duy tín ngưỡng.
Tư duy tín ngưỡng là tư duy dựa trên niềm tin không dựa trên các cơ sở khoa học. Niềm tin xuất hiện trên cơ sở những giải thích hợp lý trong một phạm vi nào đó về các hiện tượng. Có các niềm tin dựa trên các giải thích của khoa học và có các niềm tin không cần các cơ sở khoa học mà chỉ cần tạo nên một chỗ dựa tinh thần. Loại niềm tin thứ hai này tạo nên tín ngưỡng. Tìm chỗ dựa cho tư duy là nhu cầu của con người trước các nguy cơ đe dọa đến sự sinh tồn. Khi khoa học chưa đủ sức hoặc chưa thâm nhập sâu vào đời sống của từng cá nhân thì tất yếu tư duy phải tìm đến chỗ dưa tinh thần là tín ngưỡng. Tư duy tín ngưỡng chủ yếu nhằm đạt đến sự cân bằng trong đời sống tinh thần, giảm căng thẳng cho hoạt động thần kinh và không sử dụng được trong nghiên cứu khoa học. Nhưng nếu tư duy tín ngưỡng chuyển thành tư duy mê tín tìn kết quả có thể làm cho hoạt động thần kinh trở nên căng thẳng. Định hướng tư duy tín ngưỡng cũng là một việc quan trọng.
Tư duy logic là hoạt động của não bộ để giải quyết một vấn đề. Tư duy logic cần dữ liệu đầu vào và não bộ sẽ phân tích để ra được hướng giải quyết.
Người có khả năng tư duy logic cao là người có khả năng suy nghĩ và giải quyết vấn đề tốt dựa trên những dữ liệu, dữ kiện có sẵn trong não bộ. Dữ liệu này có thể là kiến thức hoặc kinh nghiệm của người đó.
Làm gì để cải thiện khả năng tư duy logic
– Đọc sách: Đọc sách chính là cách để rèn luyện kĩ năng nhận thức và tăng cường vốn từ vựng của bạn. Chọn sách văn học, khoa học hay những quyển sách nâng cao tính chuyên môn nghề nghiệp để đọc, sẽ giúp bộ não của bạn hoạt động tích cực hơn.
– Tham gia một khoá học: Hãy học một điều gì đó mới mẻ, chẳng hạn như đăng kí tham gia lớp nấu ăn, cắm hoa hay hội hoạ, v.v…Bản thân bạn sẽ gặp những thách thức vì phải hấp thụ những khái niệm, những thông tin và ý tưởng mới, và giữ lại những kĩ năng cần thiết suốt quá trình ghi nhớ của bộ não.
– Học ngoại ngữ: Bạn nên biết rằng học ngoại ngữ chính là cách để bộ óc của bạn linh hoạt, suy nghĩ được nhạy bén, giúp rút ngắn tính chậm chạp của quá trình suy nghĩ lão hoá theo tuổi tác. Mặt khác, còn giúp bạn giao tiếp với người nước ngoài dễ dàng hơn.
– Chơi game: Rủ bạn bè tham gia một trò chơi, chẳng hạn như chơi cờ… Bên cạnh đó, các hoạt động xã hội cũng giúp trí óc bạn linh hoạt hơn. Vì khi đó, bạn sẽ phải vận dụng trí nhớ và các kĩ năng tư duy logic của mình.
– Chơi ô chữ: sẽ giúp bạn trau dồi những kinh nghiệm, hiểu biết và củng cố lượng từ vựng của bạn.
– Tranh luận: Một cuộc thảo luận sẽ làm tinh thần bạn thêm hăng hái. Miễn là bạn cố gắng đừng đi lạc đề thành một cuộc cãi vã, bạn sẽ rèn luyện được lối tư duy nhanh, sắc sảo, logic và sáng tạo.
Các loại hình tư duy phổ biến
Tư duy khoa học.
Tư duy khoa học là tư duy có mục đích đảm bảo sự chính xác, hợp với các quy luật tư nhiên và dựa trên các chứng cứ xác thực. Vì vậy tư duy khoa học là tư duy lôgic biện chứng duy vật. Yêu cầu đối với tư duy khoa học là các kết luận của tư duy khoa học phải kiểm chứng được và được kiểm chứng. Khoa học nghiên cứu sâu về từng hiện tượng, sự vật và các mối quan hệ trực tiếp, vì vậy tính chất chủ yếu của tư duy khoa học là phân tích, hay đặc trưng của tư duy khoa học là tư duy phân tích.
Tư duy nghệ thuật.
Tư duy nghệ thuật là tư duy tìm kiếm mọi hình thức thể hiện của nội dung các sự vật, sự việc, các vấn đề, nói chung là nội dung của các đối tượng tư duy và tìm những cách thể hiện rõ nhất, đặc trưng nhất, đầy đủ nhất, ấn tượng nhất của các nội dung đó. Nếu nói chức năng của khoa học là tìm kiếm các yếu tố, các mối quan hệ của đối tượng thì có thể nói khoa học đi tìm nội dung của các đối tượng đó, còn nghệ thuật lại tìm kiếm các hình thức thể hiện của các đối tượng đó. Sự tiến triển của lịch sử đã làm cho nghệ thuật chỉ tập chung vào chức năng tìm kiếm cách thể hiện ấn tượng nhất, nghĩa là thể hiện cái đẹp. Hai thủ pháp chính để nghệ thuật thể hiện cái đẹp là đặt cái đẹp lên vị trí cao nhất và đặt cái đẹp vào vị trí tương phản với cái xấu. Tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ. Nếu không tìm được nội dung thì nghệ thuật chẳng có gì để thể hiện, ngược lại nếu khoa học không biết cách để thể hiện những cái mà khoa học tìm ra thì chẳng ai có thể biết hoặc hiểu đó là cái gì và nó như thế nào. Tư duy nghệ thuật cũng còn liên quan đến nhiều loại hình tư duy khác.
Tư duy triết học. tư duy xem xét các yếu tố, các đối tượng trên mọi mối quan hệ, cả trực tiếp và gián tiếp. Đặc trưng của tư duy triết học là tư duy tổng hợp. Yêu cầu đặt ra cho quá trình tư duy triết học là phải đặt các đối tượng tư duy trong môi trường thực vận động của nó xem xét đồng thời nhiều đối tượng hoặc một đối tượng trong nhiều môi trường khác nhau để tìm ra cái chung nhất, mối quan hệ phổ biến nhất giữa các đối tượng hoặc cái đặc trưng nhất của đối tượng. Với đặc trưng của tư duy khoa học là phân tích và của tư duy triết học là tổng hợp, khoa học và triết học ngày nay có mối quan hệ khăng khít và bổ xung cho nhau trong quá trình nhận thức thế giới (quan niệm này trước đây chưa có)
Tư duy tín ngưỡng.
Tư duy tín ngưỡng là tư duy dựa trên niềm tin không dựa trên các cơ sở khoa học. Niềm tin xuất hiện trên cơ sở những giải thích hợp lý trong một phạm vi nào đó về các hiện tượng. Có các niềm tin dựa trên các giải thích của khoa học và có các niềm tin không cần các cơ sở khoa học mà chỉ cần tạo nên một chỗ dựa tinh thần. Loại niềm tin thứ hai này tạo nên tín ngưỡng. Tìm chỗ dựa cho tư duy là nhu cầu của con người trước các nguy cơ đe dọa đến sự sinh tồn. Khi khoa học chưa đủ sức hoặc chưa thâm nhập sâu vào đời sống của từng cá nhân thì tất yếu tư duy phải tìm đến chỗ dưa tinh thần là tín ngưỡng. Tư duy tín ngưỡng chủ yếu nhằm đạt đến sự cân bằng trong đời sống tinh thần, giảm căng thẳng cho hoạt động thần kinh và không sử dụng được trong nghiên cứu khoa học. Nhưng nếu tư duy tín ngưỡng chuyển thành tư duy mê tín tìn kết quả có thể làm cho hoạt động thần kinh trở nên căng thẳng. Định hướng tư duy tín ngưỡng cũng là một việc quan trọng.
8. Chức năng tưởng tượng (Ngón trỏ tay trái)
Chức năng tưởng tượng là gì?
Tưởng tượng là khả năng của não bộ hình thành các hình ảnh, cảm giác, khái niệm trong tâm trí khi không nhận thức đối tượng đó thông qua thị giác, thính giác hoặc các giác quan khác. Tưởng tượng là công việc của tâm trí, nó giúp cung cấp ý nghĩa cho kinh nghiệm và tri thức, là cơ sở cho việc nhận thức thế giới, nó cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình học tập.
Tưởng tượng là khả năng mà qua đó chúng ta nhận thức thế giới. Những gì chúng ta sờ, nghe, thấy được được tổng hợp bằng tưởng tượng để tạo ra một “bức tranh toàn cảnh”. Ngoài ra tưởng tượng được coi là khả năng bẩm sinh.
Chúng ta hãy cùng chơi thử một số trò chơi về tưởng tượng nhé:
Bạn hãy trả lời trước khi nhìn giải đáp:
Câu 1: “Jack được trả 5 đôla cho một lần cưa khúc gỗ ra làm đôi. Vậy Jack được trả bao nhiêu tiền để cưa khúc gỗ ra làm bốn?”.
Đáp Án: 15 đôla, vì để cưa khúc gỗ ra làm đôi thì chỉ cần một lần cưa, nhưng để cưa một khúc gỗ ra làm 4 thì cần 3 lần.
Câu 2: “Có 2 người ngồi trước cửa siêu thị và chơi cờ tướng. Họ chơi 5 ván. Mỗi người đều thắng 3 ván. Sao lại thế?”.
Đáp án: Câu 2: Bởi vì 2 người này chơi với 2 người khác nhau.
Ðây là 2 trong số nhiều câu “đố mẹo” đơn giản nhất. Chúng đánh lừa não bạn vì não bạn có xu hướng suy nghĩ theo kiểu “mặc định”: 2 người chơi cờ thì “mặc định” là họ chơi với nhau, cưa khúc gỗ làm đôi được 5 đôla thì cưa làm 4 (2×2) thì “mặc định” là được trả 5×2=10 đôla… Trong khi đề bài không hề có những dữ kiện như vậy. Tại sao bạn lại “mặc định” như thế? Ðó chính là sức ỳ tâm lý làm cho não bạn bị mắc lừa ở những câu đố đòi hỏi đòi hỏi sự sáng tạo.
Sự quan trọng của chức năng tưởng tượng.
Tưởng tượng có liên quan mật thiết với mọi hoạt động của con người. Nhờ có tưởng tượng con người mới hình dung trước được kết quả của lao động, nó giúp con người định hướng mọi hoạt động, thúc đẩy hoạt động.
Ví dụ: Jack Nicklaus, một tay gôn chuyên nghiệp và nổi tiếng thế giới đã từng tiết lộ bí mật thành công của mình, trước tiên ông tưởng tượng ra hình ảnh quả bóng đang nằm ở vị trí nơi ông muốn nó kết thúc, sau đó ông tưởng tượng ra đường đi của nó và cả cái cách nó tiếp đất như thế nào ? Cuối cùng ông làm y như thế và đã thành công.
3.2. Tưởng tượng cần thiết cho hoạt động nhận thức trong các quá trình của nhận thức đều có sự tham gia hỗ trợ của tưởng tượng.
3.3. Tưởng tượng còn có vai trò trong học tập, ảnh hưởng tới sự sáng tạo của nhà văn, họa sĩ, điêu khắc,…
Ví dụ: Nếu giáo viên nói rằng: khoảng cách từ trái đất đến mặt trời bằng 149.500.000 km thì học sinh rất khó hình dung mặc dù đó là con số cụ thể. Nhưng nếu giáo viên mô tả thông qua so sánh: chuyến xe lửa chuyển động đều với vận tốc 50km/h thì phải đi hết 340 năm mới hết quảng đường đó. Thì học sinh sẽ dễ hình dung hơn.
Tưởng tượng là khả năng của não bộ hình thành các hình ảnh, cảm giác, khái niệm trong tâm trí khi không nhận thức đối tượng đó thông qua thị giác, thính giác hoặc các giác quan khác. Tưởng tượng là công việc của tâm trí, nó giúp cung cấp ý nghĩa cho kinh nghiệm và tri thức, là cơ sở cho việc nhận thức thế giới, nó cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình học tập.
Tưởng tượng là khả năng mà qua đó chúng ta nhận thức thế giới. Những gì chúng ta sờ, nghe, thấy được được tổng hợp bằng tưởng tượng để tạo ra một “bức tranh toàn cảnh”. Ngoài ra tưởng tượng được coi là khả năng bẩm sinh.
Chúng ta hãy cùng chơi thử một số trò chơi về tưởng tượng nhé:
Bạn hãy trả lời trước khi nhìn giải đáp:
Câu 1: “Jack được trả 5 đôla cho một lần cưa khúc gỗ ra làm đôi. Vậy Jack được trả bao nhiêu tiền để cưa khúc gỗ ra làm bốn?”.
Đáp Án: 15 đôla, vì để cưa khúc gỗ ra làm đôi thì chỉ cần một lần cưa, nhưng để cưa một khúc gỗ ra làm 4 thì cần 3 lần.
Câu 2: “Có 2 người ngồi trước cửa siêu thị và chơi cờ tướng. Họ chơi 5 ván. Mỗi người đều thắng 3 ván. Sao lại thế?”.
Đáp án: Câu 2: Bởi vì 2 người này chơi với 2 người khác nhau.
Ðây là 2 trong số nhiều câu “đố mẹo” đơn giản nhất. Chúng đánh lừa não bạn vì não bạn có xu hướng suy nghĩ theo kiểu “mặc định”: 2 người chơi cờ thì “mặc định” là họ chơi với nhau, cưa khúc gỗ làm đôi được 5 đôla thì cưa làm 4 (2×2) thì “mặc định” là được trả 5×2=10 đôla… Trong khi đề bài không hề có những dữ kiện như vậy. Tại sao bạn lại “mặc định” như thế? Ðó chính là sức ỳ tâm lý làm cho não bạn bị mắc lừa ở những câu đố đòi hỏi đòi hỏi sự sáng tạo.
Sự quan trọng của chức năng tưởng tượng.
Tưởng tượng có liên quan mật thiết với mọi hoạt động của con người. Nhờ có tưởng tượng con người mới hình dung trước được kết quả của lao động, nó giúp con người định hướng mọi hoạt động, thúc đẩy hoạt động.
Ví dụ: Jack Nicklaus, một tay gôn chuyên nghiệp và nổi tiếng thế giới đã từng tiết lộ bí mật thành công của mình, trước tiên ông tưởng tượng ra hình ảnh quả bóng đang nằm ở vị trí nơi ông muốn nó kết thúc, sau đó ông tưởng tượng ra đường đi của nó và cả cái cách nó tiếp đất như thế nào ? Cuối cùng ông làm y như thế và đã thành công.
3.2. Tưởng tượng cần thiết cho hoạt động nhận thức trong các quá trình của nhận thức đều có sự tham gia hỗ trợ của tưởng tượng.
3.3. Tưởng tượng còn có vai trò trong học tập, ảnh hưởng tới sự sáng tạo của nhà văn, họa sĩ, điêu khắc,…
Ví dụ: Nếu giáo viên nói rằng: khoảng cách từ trái đất đến mặt trời bằng 149.500.000 km thì học sinh rất khó hình dung mặc dù đó là con số cụ thể. Nhưng nếu giáo viên mô tả thông qua so sánh: chuyến xe lửa chuyển động đều với vận tốc 50km/h thì phải đi hết 340 năm mới hết quảng đường đó. Thì học sinh sẽ dễ hình dung hơn.
9. Chức năng quản lý (ngón cái tay phải)
Quản lý là gì?
Quản lý là điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên như nhân lực, máy móc thiết bị, vật liệu v.v… theo một mục tiêu cụ thể.
Người quản lý cần có những kỹ năng nào?
Người quản lý: phải có tính chiến thuật, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ứng phó tình huống, dày dặn kinh nghiệm.
Sự khác nhau giữa Quản lý, Lãnh Đạo và người chủ doanh nghiệp là gì?
Người lãnh đạo: phải có những tố chất như tầm nhìn chiến lược, coi trọng đại cục, là mấu chốt gắn kết tình cảm của tập thể.
Người quản lý: phải có tính chiến thuật, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ứng phó tình huống, dày dặn kinh nghiệm.
Theo tác giả của nhiều cuốn sách viết về lãnh đạo, John Maxwell, thì điểm khác biệt lớn nhất giữa nhà lãnh đạo và nhà quản lý được phân biệt dựa vào khả năng gây ảnh hưởng. Theo ông, để biết một người có thể lãnh đạo hay chỉ làm quản lý là đề nghị họ tạo ra những thay đổi tích cực. Nhà quản lý có thể tiếp tục duy trì phương hướng của tổ chức nhưng họ không đủ sức ảnh hưởng để đưa tổ chức tới một định hướng mới.
Điểm khác biệt thứ hai giữa một nhà lãnh đạo và một nhà quản lý là khả năng tạo ra tầm nhìn. Nhà lãnh đạo có khả năng tạo ra tầm nhìn cho tổ chức, hướng tới mục tiêu tương lai của tổ chức, còn nhà quản lý thì chỉ tập trung vào mục tiêu hiện tại của tổ chức.
Nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp là người bỏ vốn vào công ty để kinh doanh và bỏ tiền ra để thuê người khác làm việc cho mình. Họ có thể thuê giám đốc lãnh đạo công ty cho mình. Vì vậy, chủ doanh nghiệp có quyền quyết định nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp trong nhiều trường hợp cũng chính là người điều hành doanh nghiệp. Điều này cũng làm người ta nhầm lẫn giữa chủ doanh nghiệp và nhà lãnh đạo.
Sự khác biệt giữa nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp cũng chính là sự ảnh hưởng. Chủ doanh nghiệp thuê người khác làm việc cho mình, nhưng không có nghĩa là họ có ảnh hưởng với những người đó. Họ chỉ trả tiền để người lao động thực hiện những công việc yêu cầu. Nhà lãnh đạo bằng ảnh hưởng của mình để cuốn hút, lôi kéo người khác, khiến họ làm việc tốt hơn.
Công việc của người quản lý là gì?
Hoạch định: lên các kế hoạch cụ thể cái gì làm trước và cái gì làm sau, thời gian làm bao lâu.
Tổ chức: Sắp xếp bố trí nhân lực, vật liệu, máy móc tối ưu để hoàn thành mục tiêu.
Bố trí nhân lực: phân tích công việc, tuyển dụng và phân công từng cá nhân cho từng công việc thích hợp.
Kiểm soát: Giám sát, kiểm tra quá trình hoạt động theo kế hoạch (kế hoạch có thể sẽ được thay đổi phụ thuộc vào phản hồi của quá trình kiểm tra).
Như vậy một người có chỉ số vân tay khả năng quản lý cao là người rất giỏi về bố trí, sắp xếp nhân lực, chia nhỏ công việc và giao cho từng người một. Người quản lý giỏi là người phải có 2 kỹ năng sau đó là kỹ năng giải quyết vấn đề và ứng phó tình huống bất ngờ.
Quản lý là điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên như nhân lực, máy móc thiết bị, vật liệu v.v… theo một mục tiêu cụ thể.
Người quản lý cần có những kỹ năng nào?
Người quản lý: phải có tính chiến thuật, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ứng phó tình huống, dày dặn kinh nghiệm.
Sự khác nhau giữa Quản lý, Lãnh Đạo và người chủ doanh nghiệp là gì?
Người lãnh đạo: phải có những tố chất như tầm nhìn chiến lược, coi trọng đại cục, là mấu chốt gắn kết tình cảm của tập thể.
Người quản lý: phải có tính chiến thuật, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ứng phó tình huống, dày dặn kinh nghiệm.
Theo tác giả của nhiều cuốn sách viết về lãnh đạo, John Maxwell, thì điểm khác biệt lớn nhất giữa nhà lãnh đạo và nhà quản lý được phân biệt dựa vào khả năng gây ảnh hưởng. Theo ông, để biết một người có thể lãnh đạo hay chỉ làm quản lý là đề nghị họ tạo ra những thay đổi tích cực. Nhà quản lý có thể tiếp tục duy trì phương hướng của tổ chức nhưng họ không đủ sức ảnh hưởng để đưa tổ chức tới một định hướng mới.
Điểm khác biệt thứ hai giữa một nhà lãnh đạo và một nhà quản lý là khả năng tạo ra tầm nhìn. Nhà lãnh đạo có khả năng tạo ra tầm nhìn cho tổ chức, hướng tới mục tiêu tương lai của tổ chức, còn nhà quản lý thì chỉ tập trung vào mục tiêu hiện tại của tổ chức.
Nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp là người bỏ vốn vào công ty để kinh doanh và bỏ tiền ra để thuê người khác làm việc cho mình. Họ có thể thuê giám đốc lãnh đạo công ty cho mình. Vì vậy, chủ doanh nghiệp có quyền quyết định nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp trong nhiều trường hợp cũng chính là người điều hành doanh nghiệp. Điều này cũng làm người ta nhầm lẫn giữa chủ doanh nghiệp và nhà lãnh đạo.
Sự khác biệt giữa nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp cũng chính là sự ảnh hưởng. Chủ doanh nghiệp thuê người khác làm việc cho mình, nhưng không có nghĩa là họ có ảnh hưởng với những người đó. Họ chỉ trả tiền để người lao động thực hiện những công việc yêu cầu. Nhà lãnh đạo bằng ảnh hưởng của mình để cuốn hút, lôi kéo người khác, khiến họ làm việc tốt hơn.
Công việc của người quản lý là gì?
Hoạch định: lên các kế hoạch cụ thể cái gì làm trước và cái gì làm sau, thời gian làm bao lâu.
Tổ chức: Sắp xếp bố trí nhân lực, vật liệu, máy móc tối ưu để hoàn thành mục tiêu.
Bố trí nhân lực: phân tích công việc, tuyển dụng và phân công từng cá nhân cho từng công việc thích hợp.
Kiểm soát: Giám sát, kiểm tra quá trình hoạt động theo kế hoạch (kế hoạch có thể sẽ được thay đổi phụ thuộc vào phản hồi của quá trình kiểm tra).
Như vậy một người có chỉ số vân tay khả năng quản lý cao là người rất giỏi về bố trí, sắp xếp nhân lực, chia nhỏ công việc và giao cho từng người một. Người quản lý giỏi là người phải có 2 kỹ năng sau đó là kỹ năng giải quyết vấn đề và ứng phó tình huống bất ngờ.
10. Chức năng lãnh đạo (Ngón cái tay trái)
Lãnh đạo là gì?
Nói nôm na lãnh đạo là một quá trình tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới nhằm đạt mục tiêu của tổ chức. Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức. Hiện nay khái niệm “nhà lãnh đạo” đang bị ngộ nhận và nhầm lẫn với nhiều khái niệm khác mà đặc biệt là với nhà quản lý, hay chủ doanh nghiệp.
Dù nhìn nhận theo cách nào, thì một nhà lãnh đạo phải đảm bảo được 3 yếu tố: khả năng tạo tầm nhìn,khả năng truyền cảm hứng và khả năng gây ảnh hưởng. Hiểu một cách đơn giản, nhà lãnh đạo là người có khả năng tạo ra tầm nhìn cho một tổ chức hay một nhóm và biết sử dụng quyền lực của mình để gây ảnh hưởng cho những người cấp dưới thực hiện tầm nhìn đó.
Phân biệt lãnh đạo và quản lý
Người lãnh đạo: phải có những tố chất như tầm nhìn chiến lược, coi trọng đại cục, là mấu chốt gắn kết tình cảm của tập thể.
Người quản lý: phải có tính chiến thuật, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ứng phó tình huống, dày dặn kinh nghiệm.
Theo tác giả của nhiều cuốn sách viết về lãnh đạo, John Maxwell, thì điểm khác biệt lớn nhất giữa nhà lãnh đạo và nhà quản lý được phân biệt dựa vào khả năng gây ảnh hưởng. Theo ông, để biết một người có thể lãnh đạo hay chỉ làm quản lý là đề nghị họ tạo ra những thay đổi tích cực. Nhà quản lý có thể tiếp tục duy trì phương hướng của tổ chức nhưng họ không đủ sức ảnh hưởng để đưa tổ chức tới một định hướng mới.
Điểm khác biệt thứ hai giữa một nhà lãnh đạo và một nhà quản lý là khả năng tạo ra tầm nhìn. Nhà lãnh đạo có khả năng tạo ra tầm nhìn cho tổ chức, hướng tới mục tiêu tương lai của tổ chức, còn nhà quản lý thì chỉ tập trung vào mục tiêu hiện tại của tổ chức.
Nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp là người bỏ vốn vào công ty để kinh doanh và bỏ tiền ra để thuê người khác làm việc cho mình. Họ có thể thuê giám đốc lãnh đạo công ty cho mình. Vì vậy, chủ doanh nghiệp có quyền quyết định nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp trong nhiều trường hợp cũng chính là người điều hành doanh nghiệp. Điều này cũng làm người ta nhầm lẫn giữa chủ doanh nghiệp và nhà lãnh đạo.
Sự khác biệt giữa nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp cũng chính là sự ảnh hưởng. Chủ doanh nghiệp thuê người khác làm việc cho mình, nhưng không có nghĩa là họ có ảnh hưởng với những người đó. Họ chỉ trả tiền để người lao động thực hiện những công việc yêu cầu. Nhà lãnh đạo bằng ảnh hưởng của mình để cuốn hút, lôi kéo người khác, khiến họ làm việc tốt hơn.
Như vậy người có khả năng lãnh đạo cao là gì? Đó là người có tầm nhìn chiếc lược tốt, khả năng truyền cảm hứng cho mọi người cao, khả năng gây ảnh hưởng lôi kéo cuốn hút người khác làm việc.
Một người có kỹ năng lãnh đạo cao nhưng vẫn chưa là một nhà lãnh đạo là vì sao?
khi phân tích dấu vân tay ra được bài báo cáo phân tích, nhiều người nhận thấy kỹ năng lãnh đạo của mình rất cao, có thể từ 12-15% so với các kỹ năng khác nhưng từ trước đến giờ họ lại chưa thực sự làm lãnh đạo cho 1 nhóm nào? Lý do là tại sao?
Không phải ai có kỹ năng lãnh đạo cũng trở thành một nhà lãnh đạo nếu không được rèn luyện những kỹ năng sau:
Kỹ năng nhận thức: bao gồm khả năng phân tích, tổng hợp vấn đề, suy nghĩ logic và toàn diện. Nhà lãnh đạo cần có các kỹ năng này để nhận thức được các xu thế phát triển, những cơ hội và thách thức trong tương lai, dự đoán được những thay đổi, từ đó hình thành nên tầm nhìn cho tổ chức.
Kỹ năng quan hệ xã hội: bao gồm khả năng nhận thức về hành vi của con người và quá trình tạo lập mối quan hệ giữa con người với con người. Cụ thể đó là những hiểu biết về cảm xúc, thái độ, động cơ của con người thông qua lời nói và hành động của họ. Chính kỹ năng “hiểu người” sẽ giúp nhà lãnh đạo có cách truyền cảm hứng và tạo động lực cho cấp dưới một cách hiệu quả. Kỹ năng cần thiết cho việc lãnh đạo hiệu quả là kỹ năng tạo lập mối quan hệ, khác với những chuyên môn cụ thể. Nhiều người thăng tiến nhờ vào sự xuất sắc trong việc áp dụng chuyên môn của mình trong kinh doanh. Và rồi, khi họ có được những vị trí cao hơn, họ có thể bị vấp ngã do họ đã cố gắng áp dụng những chuyên môn trước đây vào những vấn đề đòi hỏi kỹ năng hiểu biết con người và sự nhạy bén về mặt cảm xúc.
Kỹ năng công việc: là những kiến thức về phương pháp, tiến trình, kỹ thuật… về một lĩnh vực chuyên biệt nào đó. Người lãnh đạo cần phải là người sở hữu các tri thức và phải là chuyên gia trong lĩnh vực họ đang làm.Một nhà lãnh đạo tốt phải là một nhà quản lý giỏi, vì vậy nhà lãnh đạo phải có được các kỹ năng quản lý, lập kế hoạch…của một nhà quản lý.
Nói nôm na lãnh đạo là một quá trình tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới nhằm đạt mục tiêu của tổ chức. Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức. Hiện nay khái niệm “nhà lãnh đạo” đang bị ngộ nhận và nhầm lẫn với nhiều khái niệm khác mà đặc biệt là với nhà quản lý, hay chủ doanh nghiệp.
Dù nhìn nhận theo cách nào, thì một nhà lãnh đạo phải đảm bảo được 3 yếu tố: khả năng tạo tầm nhìn,khả năng truyền cảm hứng và khả năng gây ảnh hưởng. Hiểu một cách đơn giản, nhà lãnh đạo là người có khả năng tạo ra tầm nhìn cho một tổ chức hay một nhóm và biết sử dụng quyền lực của mình để gây ảnh hưởng cho những người cấp dưới thực hiện tầm nhìn đó.
Phân biệt lãnh đạo và quản lý
Người lãnh đạo: phải có những tố chất như tầm nhìn chiến lược, coi trọng đại cục, là mấu chốt gắn kết tình cảm của tập thể.
Người quản lý: phải có tính chiến thuật, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ứng phó tình huống, dày dặn kinh nghiệm.
Theo tác giả của nhiều cuốn sách viết về lãnh đạo, John Maxwell, thì điểm khác biệt lớn nhất giữa nhà lãnh đạo và nhà quản lý được phân biệt dựa vào khả năng gây ảnh hưởng. Theo ông, để biết một người có thể lãnh đạo hay chỉ làm quản lý là đề nghị họ tạo ra những thay đổi tích cực. Nhà quản lý có thể tiếp tục duy trì phương hướng của tổ chức nhưng họ không đủ sức ảnh hưởng để đưa tổ chức tới một định hướng mới.
Điểm khác biệt thứ hai giữa một nhà lãnh đạo và một nhà quản lý là khả năng tạo ra tầm nhìn. Nhà lãnh đạo có khả năng tạo ra tầm nhìn cho tổ chức, hướng tới mục tiêu tương lai của tổ chức, còn nhà quản lý thì chỉ tập trung vào mục tiêu hiện tại của tổ chức.
Nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp là người bỏ vốn vào công ty để kinh doanh và bỏ tiền ra để thuê người khác làm việc cho mình. Họ có thể thuê giám đốc lãnh đạo công ty cho mình. Vì vậy, chủ doanh nghiệp có quyền quyết định nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp trong nhiều trường hợp cũng chính là người điều hành doanh nghiệp. Điều này cũng làm người ta nhầm lẫn giữa chủ doanh nghiệp và nhà lãnh đạo.
Sự khác biệt giữa nhà lãnh đạo và chủ doanh nghiệp cũng chính là sự ảnh hưởng. Chủ doanh nghiệp thuê người khác làm việc cho mình, nhưng không có nghĩa là họ có ảnh hưởng với những người đó. Họ chỉ trả tiền để người lao động thực hiện những công việc yêu cầu. Nhà lãnh đạo bằng ảnh hưởng của mình để cuốn hút, lôi kéo người khác, khiến họ làm việc tốt hơn.
Như vậy người có khả năng lãnh đạo cao là gì? Đó là người có tầm nhìn chiếc lược tốt, khả năng truyền cảm hứng cho mọi người cao, khả năng gây ảnh hưởng lôi kéo cuốn hút người khác làm việc.
Một người có kỹ năng lãnh đạo cao nhưng vẫn chưa là một nhà lãnh đạo là vì sao?
khi phân tích dấu vân tay ra được bài báo cáo phân tích, nhiều người nhận thấy kỹ năng lãnh đạo của mình rất cao, có thể từ 12-15% so với các kỹ năng khác nhưng từ trước đến giờ họ lại chưa thực sự làm lãnh đạo cho 1 nhóm nào? Lý do là tại sao?
Không phải ai có kỹ năng lãnh đạo cũng trở thành một nhà lãnh đạo nếu không được rèn luyện những kỹ năng sau:
Kỹ năng nhận thức: bao gồm khả năng phân tích, tổng hợp vấn đề, suy nghĩ logic và toàn diện. Nhà lãnh đạo cần có các kỹ năng này để nhận thức được các xu thế phát triển, những cơ hội và thách thức trong tương lai, dự đoán được những thay đổi, từ đó hình thành nên tầm nhìn cho tổ chức.
Kỹ năng quan hệ xã hội: bao gồm khả năng nhận thức về hành vi của con người và quá trình tạo lập mối quan hệ giữa con người với con người. Cụ thể đó là những hiểu biết về cảm xúc, thái độ, động cơ của con người thông qua lời nói và hành động của họ. Chính kỹ năng “hiểu người” sẽ giúp nhà lãnh đạo có cách truyền cảm hứng và tạo động lực cho cấp dưới một cách hiệu quả. Kỹ năng cần thiết cho việc lãnh đạo hiệu quả là kỹ năng tạo lập mối quan hệ, khác với những chuyên môn cụ thể. Nhiều người thăng tiến nhờ vào sự xuất sắc trong việc áp dụng chuyên môn của mình trong kinh doanh. Và rồi, khi họ có được những vị trí cao hơn, họ có thể bị vấp ngã do họ đã cố gắng áp dụng những chuyên môn trước đây vào những vấn đề đòi hỏi kỹ năng hiểu biết con người và sự nhạy bén về mặt cảm xúc.
Kỹ năng công việc: là những kiến thức về phương pháp, tiến trình, kỹ thuật… về một lĩnh vực chuyên biệt nào đó. Người lãnh đạo cần phải là người sở hữu các tri thức và phải là chuyên gia trong lĩnh vực họ đang làm.Một nhà lãnh đạo tốt phải là một nhà quản lý giỏi, vì vậy nhà lãnh đạo phải có được các kỹ năng quản lý, lập kế hoạch…của một nhà quản lý.